Nền kinh tế Trung Quốc đã liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Giá trị tổng sản lượng quốc nội (GDP) tăng trung bình 8,8%/năm. GDP bình quân đầu người từ mức 856 USD của năm 2000 tăng lên tới khoảng 1.380 USD của năm 2005. Hiệu quả kinh tế được nâng cao rõ rệt. Lợi nhuận xí nghiệp công nghiệp từ mức 439,3 tỷ Nhân dân tệ (NDT- 1 NDT bằng khoảng 1.900 đồng Việt Nam ), tăng lên mức 1.134,2 tỷ NDT.
Về mặt công nghệ, tiến trình công nghiệp hoá, tin học hoá được đẩy nhanh. Tốc độ tăng trưỏng công nghiệp giai đoạn 2001 - 2004 đạt bình quân 10,7%. Tỷ trọng công nghiệp trong nền kinh tế từ 43,6% năm 2001 tăng lên 45,9% năm 2004. Sản lượng các sản phẩm quan trọng tăng mạnh, như thép phôi tăng 144 triệu tấn, thép thành phẩm tăng 165,77 triệu tấn, xe hơi tăng 3 triệu chiếc, đều gấp hơn hai lần; xi măng tăng 373 triệu tấn, tăng 62%; điện lực tăng 831,4 tỷ kWh, tăng 61,3%.
Sự phát triển của thành thị - nông thôn được cân đối hơn. Nhà nước Trung Quốc đã thi hành chủ trương miễn thuế nông nghiệp, trực tiếp trợ giá cho nông dân trồng lương thực, sản xuất nông nghiệp có sự chuyển biến quan trọng, sản lượng lương thực năm 2004 đạt gần 469,5 triệu tấn, năm nay có thể đạt khoảng 480 triệu tấn.
Thể chế kinh tế được cải cách mạnh mẽ. Việc cải cách các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện mạnh: trong tổng số 2.903 xí nghiệp do nhà nước sở hữu hoặc chiếm cổ phần khống chế, đến cuối năm 2004 đã có 1.464 xí nghiệp được chuyển đổi thành xí nghiệp loại hình công ty cổ phần. Thể chế giám sát quản lý vốn quốc hữu bước đầu được hình thành. Cải cách thể chế trong các ngành trọng điểm như: thông tin điện tử, hàng không dân dụng, điện lực được đẩy nhanh. Việc cải cách thuế ở nông thôn đạt được tiến bộ lớn, thị trường thu mua lương thực được mở cửa trở thành thị trường kinh doanh nhiều luồng mạch.
Xuất nhập khẩu hàng hoá của Trung Quốc liên tục đạt mức tăng trưởng cao; 3 quý đầu năm nay đạt 1.024,5 tỷ USD, tăng 23,7% so với cùng kỳ năm 2004; dự tính năm 2005 có thể đạt tổng mức 1.300 tỷ USD, tăng hơn 2,7 lần so với năm 2000, đưa Trung Quốc từ vị trí thứ 8 vượt lên vị trí thứ ba về thương mại trên thế giới. Cơ cấu hàng xuất khẩu được cải thiện thêm một bước, sản phẩm cơ điện và sản phẩm công nghệ cao và mới chiếm lần lượt 54,5% và 27,9% trong cơ cấu hàng xuất khẩu.
Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Dự tính năm 2005 mức thu nhập của dân cư thành thị có khả năng đạt 10.000 NDT, tăng 59% so với năm 2000; thu nhập của nông dân vào khoảng 3.200 NDT, tăng 42% so với năm 2000. Số người nghèo khó ở nông thôn từ 32,09 triệu năm 2000 giảm xuống còn 26,1 triệu năm 2004. Mức độ chênh lệch giàu-nghèo giảm bớt đáng kể.
Các sự nghiệp phúc lợi xã hội phát triển nhanh. Nhà nước tăng mạnh ngân sách và trợ giúp cho khoa học công nghệ, giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục thể thao. Các công trình khoa học công nghệ cơ sở quan trọng được xây dựng nhiều. Các kế hoạch nghiên cứu công nghệ cao, các kế hoạch khoa học công nghệ then chốt, các kế hoạch nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ cơ bản trọng điểm của nhà nước tiến triển thuận lợi. Việc nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu công nghệ cao chiến lược đạt nhiều thành quả quan trọng. Thành tựu lớn tiêu biểu cho sự tiến bộ về khoa học công nghệ của Trung Quốc là việc phóng thành công tầu vũ trụ Thần Châu - 6, trong đó lần đầu tiên hai nhà du hành vũ trụ Trung Quốc đã bay nhiều ngày trong vũ trụ.
Việc xây dựng pháp chế dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng văn minh tinh thần được chú trọng và tăng cường. Sinh hoạt dân chủ ở cơ sở được mở rộng, các thể chế thôn xóm tự quản, phường tự quản, công khai việc xóm, công khai việc xí nghiệp, công khai việc hành chính từng bước được xúc tiến. Tiến trình xây dựng pháp chế được đẩy nhanh, nhiều bộ luật hoặc luật quan trọng được chế định.