Đối tượng được hỗ trợ về nhà ở theo quy định này phải đủ 3 điều kiện: Là hộ nghèo (theo chuẩn nghèo quy định tại Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ), đang cư trú tại địa phương, có trong danh sách hộ nghèo do UBND cấp xã quản lý; hộ chưa có nhà ở hoặc đã có nhà ở nhưng quá tạm bợ, hư hỏng, dột nát, có nguy cơ sập đổ và không có khả năng tự cải thiện nhà ở; hộ không thuộc diện đối tượng được hỗ trợ nhà ở theo quy định tại Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg và theo các chính sách hỗ trợ nhà ở khác.
Thực hiện hỗ trợ nhà ở theo thứ tự ưu tiên, cụ thể: hộ gia đình có công với cách mạng; hộ gia đình là đồng bào dân tộc thiểu số; hộ gia đình trong vùng thường xuyên xảy ra thiên tai; hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn (già cả, neo đơn, tàn tật...); hộ gia đình đang sinh sống trong vùng đặc biệt khó khăn...
Mỗi gia đình được xây dựng một căn nhà có diện tích sử dụng tối thiểu 24 m2, tuổi thọ căn nhà từ 10 năm trở lên trên tinh thần Nhà nước hỗ trợ, cộng đồng giúp đỡ và hộ gia đình đóng góp.
Mức hỗ trợ xây dựng nhà ở của Ngân sách nhà nước cho các hộ gia đình là 6 triệu đồng/hộ. Đối với những hộ dân cư trú tại các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn thì được Ngân sách trung ương hỗ trợ 7 triệu đồng/hộ.
Nếu hộ dân có nhu cầu vay tín dụng từ Ngân hàng Chính sách Xã hội làm nhà ở sẽ được vay tối đa là 8 triệu đồng/hộ, lãi suất vay 3%/năm, thời hạn vay là 10 năm, thời gian ân hạn là 5 năm. Thời gian trả nợ là 5 năm, mức trả nợ mỗi năm tối thiểu là 20% tổng số vốn đã vay.
Thủ tướng chỉ đạo, trong năm 2008, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải cơ bản thực hiện xong việc bình xét, lập danh sách số hộ nghèo trên địa bàn.
Đến cuối năm 2011 cơ bản thực hiện xong chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở, trong đó có hoàn thành việc hỗ trợ cho các đối tượng là hộ nghèo thuộc diện chính sách và hộ đồng bào dân tộc. Đến cuối năm 2012 hoàn thành thực hiện chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở này trên toàn quốc.