Kết nối nghiên cứu với thực tiễn
cho một nền NÔNG NGHIỆP tăng trưởng toàn diện
Dự báo cung cầu lúa gạo thế giới và các yếu tố tác động
23 | 04 | 2008
Theo dự báo của Ban Nghiên cứu Kinh tế, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, dự báo trong giai đoạn 2007-2017, các nước sản xuất gạo ở Châu Á sẽ tiếp tục là nguồn cung cấp gạo xuất khẩu chính của thế giới: bao gồm Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ. Riêng xuất khẩu gạo của hai nước Thái Lan và Việt Nam sẽ chiếm khoảng nửa tổng lượng gạo xuất khẩu của thế giới.
1. Dự báo cung - cầu lúa gạo thế giới

Diện tích gạo thế giới dự báo sẽ không mở rộng trong giai đoạn từ 2007 đến 2014, thấp hơn khoảng 2% so với mức tính toán của 1999/2000. Hầu hết các nước Châu Á đều không có, hoặc có khả năng rất ít mở rộng diện tích lúa. Trong thập kỷ tới, diện tích lúa ở Trung Quốc thu hẹp lại dự báo sẽ bù trừ vào diện tích mở rộng ở tiểu vùng Saharan ở Châu Phi và các nước châu Mỹ La tinh.
Diện tích và năng suất lúa Thái Lan (2006-2017)
Diện tích lúa Việt Nam (2006-2017)-1000 ha
Diện tích lúa Trung Quốc - 1000 ha
Diện tích lúa Tiểu vùng Saharan-Châu Phi (2006-2017) - 1000 ha

Nguồn: Ban Nghiên cứu Kinh tế, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, ERS/USDA


Cung gạo xuất khẩu tăng chủ yếu ở Châu Á


Theo dự báo của Ban Nghiên cứu Kinh tế, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, dự báo trong giai đoạn 2007-2017, các nước sản xuất gạo ở Châu Á sẽ tiếp tục là nguồn cung cấp gạo xuất khẩu chính của thế giới: bao gồm Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ. Riêng xuất khẩu gạo của hai nước Thái Lan và Việt Nam sẽ chiếm khoảng nửa tổng lượng gạo xuất khẩu của thế giới. Việt Nam xuất khẩu gạo hạt dài là chủ yếu. Thái Lan xuất khẩu gạo thơm, gạo hạt dài đặc biệt và gao dính. Có thể thấy rằng nguồn cung xuất khẩu gạo của các Việt Nam và Thái Lan dự báo tăng do mấy nguyên nhân: (i) sản lượng gạo tăng do năng suất lúa được cải thiện, (i) tiêu dùng gạo bình quân đầu người trong nước có xu hướng giảm.

Dự báo, một số nước khác cũng sẽ đóng góp giúp tăng sản lượng gạo thế giới như: Ấn Độ, các tiểu vùng Saharan Châu Phi, Bangladesh, Philippines, Brazil.

Ấn Độ dự báo vẫn đứng ở vị trí thứ tư trong số các nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Xuất khẩu gao của Ấn Độ thất thường. Gạo Ấn Độ xuất khẩu chủ yếu là gạo basmati. Tuy nhiên trong những năm gần đây, lũ và hạn hán xảy ra ở nước này gây thiệt hại lớn về sản lượng lương thực, giá lúa mỳ tăng cao đã đẩy nhu cầu tiêu thụ gạo tăng. Chính phủ nước này đang xem xét ban hành chính sách cấm xuất khẩu các loại gạo thường không phải basmati. Theo dự báo của USDA trong thập kỷ tới, dự báo xuất khẩu gạo Ấn Độ sẽ tăng trưởng hơn 30%, thị phần xuất khẩu gạo của Ấn Độ sẽ tăng từ 16% năm 2007/08 lên khoảng 17% đến năm 2016/17.

Ngược lại với 3 nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới, thị phần gạo xuất khẩu dự báo sẽ giảm ở Hoa Kỳ, Pakistan, và Trung Quốc. Mặc dù Hoa Kỳ dự báo vẫn là nước xuất khẩu gạo lớn thứ tư thế giới trong giai đoạn 2007/07 đến 2016/17, tuy nhiên trong giai đoạn này, xuất khẩu gạo Hoa Kỳ tăng chậm trong cả giai đoạn. Thị phần xuất khẩu gạo của Hoa Kỳ trên thị trường thế giới sẽ giảm từ 12% năm 2007/07 xuống chỉ còn khoảng 10% vào năm 2016/17. Lý do, tăng nhu cầu trong nước và mở rộng sản xuất ở các vùng có diện tích hẹp, năng suất tăng chậm làm ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo của Hoa Kỳ.

Ở Pakistan, hiện nay, là nước xuất khẩu gạo lớn thứ năm thế giới, và có ít khả năng mở rộng diện tích lúa gạo. Ngoài ra, Pakistan còn đang đối mặt với vấn đề thiếu nước, các vấn đề môi trường liên quan đến nông nghiệp. Như vậy, xuất khẩu gạo Pakistan dự kiến tương đối ổn định, ở mức 3 triệu tấn một năm trong cả giai đoạn.

Trung Quốc xuất khẩu trung bình 2,6 triệu tấn gạo trong giai đoạn 1998-2003, từ đó xuất khẩu gạo của Trung Quốc tiếp tục giữ ổn định ở mức 1 triệu tấn gạo. Khối lượng gạo xuất khẩu của Trung Quốc giảm từ năm 2004 do diện tích lúa thu hẹp lại dẫn đến nguồn cung trong nước hạn chế. Diện tích sản xuất lúa được dự báo là giảm nhẹ, bù lại năng suất tăng lên. Mức tiêu dùng giảm nhẹ bù cho dân số tăng. TRung Quốc xuất khẩu gạo chất lượng cao, gạo hạt ngắn và trung bình tới thị trường bắc Á và gạo chất lượng thấp, hạt dài tới thị trường Sa ha ra Châu Phi và mọt số thị trưòng cóa thu nhập thấp của Châu Á.

Trong các nước xuất khẩu gạo với khối lượng nhỏ hơn như Úc, Achentina, các nước Nam Mỹ khác (Uruguay, Guyana, Surinam) dự kiến sẽ tăng xuất khẩu trong giai đoạn tới. Úc dự kiến sẽ tăng xuất khẩu từ 150 nghìn tấn năm 2007/08 lên 220 nghìn tấn vào năm 2008/09, do sự khôi phục của sản lượng gạo sau hạn hán. Mặc dù vậy, xuất khẩu gạo Úc vấn sẽ thấp hơn mức kỷ lục 662 nghìn tấn gạo xuất khẩu vào năm 1998/99. Xuất khẩu gạo Achentina dự kiến sẽ tăng 3-4% năm trong giai đoạn 2007/08 đến 2016/17, do sản lượng gạo tăng dự kiến vượt nhu cầu gạo nội địa. Xuất khẩu gạo của các nước Nam Mỹ (chủ yếu từ Uruguay) dự báo tăng 2-3% mỗi năm, do tăng trưởng sản lượng thấp hơn mức tăng tiêu dùng. Các nước Úc, Achentina, Uruguay xuất khẩu hầu hết các nông sản của họ.

Ai Cập và EU cũng xuất khẩu gạo, nhưng dự báo xuất khẩu gạo của Ai Cập dự báo sẽ giảm trong 10 năm tới, do tăng trưởng tiêu dùng gạo mạnh vượt mức tăng sản lượng. Xuất khẩu gạo Ai Cập hiện đã đạt gần tới mức kỷ lục. Diện tích trồng lúa dự báo sẽ không tăng, và năng suất lúa Ai Cập đạt mức gần cao nhất của thế giới. Xuất khẩu gạo EU dự báo không tăng và ổn định trong suốt giai đoạn 1008/09 đến 2016/17, sau khi tăng mạnh trong giai đoạn đầu dự báo. EU không cạnh tranh về giá trên thị trường gạo thế giới. Hầu hết xuất khẩu gạo EU tới các thị trường Bắc Phi, Trung Đông, Trung Á và các nước châu Âu khác.


Nhu cầu tiêu dùng gạo thế giới


Theo dư báo của USDA tháng 2 năm 2007, thương mại lúa gạo toàn cầu tăng 2,4 % hàng năm từ năm 2007 dến 2016. đến năm 2016 thương mại lúa gạo toàn cấu đạt mức 35 triệu tấn, tăng gần 25% so với mức năm 2002. Trong những năm tới các giống gạo hạt dài dự tính khoảng ¾ thương mại lúa gạo toàn cầu. Đây là một lợi thế cho Việt nam. Gạo hạt dài sẽ được nhập khẩu bởi nhiều nước Nam và Đông Nam Á, nhiều nước ở Trung Đông và phần lớn các nước vùng Sahara Châu Phi và các nước Châu Mỹ la tinh. Gạo hạt ngăn và hạt trung bình dự kiến tăng 10-12% thương mại toàn cầu, với các nước nhập khẩu chủ yếu là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ, Jordan, Papue Neư Guine v.v.

Gạo thơm như Basmati và Jasmine được các nước có thu nhập cao nhập khẩu. Về nước nhập khẩu, Indonesia và Bangladesh sẽ là hai nước nhập hàng đầu, do tăng dân số, mặt khác hạn chế về đất đai và mức thâm canh cao làm cho các nước này khó có cơ hội mở rộng sản xuất đáng kể. Các nước vùng Sah a ra và rung đông tăng trưởng cầu nhanh do tăng dân số nhanh., điều kiện khí hậu khó khăn, CSHT yếu kém khó để mở rộng sản xuất. Riêng vùng Sah a ra dự báo sẽ chiếm khoảng 20% lượng tăng cầu lúa gạo trên thế giới trong giai đoạn tới.
Theo dự báo của Ban Nghiên cứu Kinh tế, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, trong giai đoạn 2007-2017, tiêu dùng gạo thế giới dự báo sẽ tăng do chủ yếu là do dân số Châu Á tăng (trường hợp của Indonesia và Bangladesh ở Châu Á), và mức tiêu dùng gạo bình quân đầu người tăng ở các nước Tây bán cầu, Trung Đông (và trường hợp Philippines ở Châu Á). Dự báo trong giai đoạn 2007-2017, tiêu dùng gạo thế giới tăng phần lớn là do nhu cầu nhập khẩu gạo tăng ở Ấn Độ, Indonesia và Bangladesh, Philippines và tiểu vùng Saharan của Châu Phi. Năm thị trường này chiếm khoảng 2/3 phần tăng cầu nhập khẩu lúa gạo của toàn thế giới trong giai đoạn 2007-2017.

Nhu cầu nhập khẩu gạo của Indonesia và Bangladesh do dân số tăng. Ngoài ra, nguồn lực đất khan hiếm nên diện tích lúa khó có thể mở rộng, và diện tích canh tác lúa phải cạnh tranh với các diện tích đất trồng các cây lương thực thay thế khác và đất sử dụng cho phi nông nghiệp. Phần lớn diện tích trồng lúa ở Bangladesh là diện tích gieo cấy lúa năng suất cao, nên tiềm năng năng suất lúa dự báo sẽ tiếp tục tăng.

Ở Philippines, hầu hết phần sản lượng lúa tăng ở Philippines là do áp dụng nhiều giống lúa cao sản năng suất cao, nhưng sản lượng tăng dự báo vẫn không đáp ứng kịp mức mức tăng nhu cầu lúa gạo nội địa của nước này. Tiêu dùng gạo bình quân đầu người của Philippines dự báo sẽ tăng.

Ở các tiểu vùng Saharan Châu Phi, dự báo nhu cầu nhập khẩu gạo hàng năm sẽ tăng lên để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tăng, do dân số tăng nhanh và thu nhập tăng lên. Gạo nhập khẩu đáp ứng khoảng 50% nhu cầu tiêu dùng trong tiểu vùng này. Ở Trung Đông, nhập khẩu gạo tăng nhanh là do nhu cầu tiêu dùng tăng nhanh.

Tuy nhiên, ở nhiều nước Châu Á, đặc biệt là các nước có thu nhập trung bình và thu nhập cao, sẽ có xu hướng giảm tiêu dùng gạo do tác động của yếu tố thu nhập tăng, và bên cạnh đó là các phong trào ăn kiêng ngày càng đa dạng. Theo đó, tổng tiêu dùng gạo ở Trung Quốc, nước tiêu dùng gạo nhiều nhất trên thế giới, dự báo sẽ giảm trong giai đoạn 2007-2017.
Dự báo tiêu dùng gạo Ấn Độ, (2007-2017), 1000 tấn
Dự báo tiêu dùng gạo Bangladesh, (2007-2017), 1000 tấn
Dự báo tiêu dùng gạo Tiểu vùng Saharan-Châu Phi, (2007-2017), 1000 tấn
Dự báo tiêu dùng gạo Trung Quốc, (2007-2017), 1000 tấn
Nguồn: ERS/USDA Sushil Pandey, Giám đốc Chương trình “Chính sách lúa gạo và Tác động” của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) gần đây đã đưa ra dự báo khá đồng nhất với dự báo của USDA. Theo Sushil Pandey, nhu cầu cầu gạo ở Châu Á dự báo sẽ tiếp tục tăng trong tương lai do áp lực tăng dân số của khu vực này. Mặc dù tiêu dùng gạo bình quân đầu người giảm ở các nước Châu Á có thu nhập cao, dự báo nhu cầu lúa của Châu Á sẽ tăng thêm 38 triệu tấn mỗi năm trong giai đoạn 2008-2015. Nhu cầu lúa gạo của Châu Phi dự báo cũng sẽ tăng, và lúa gạo sẽ là cây lương thực chính của khu vực này. Tổng nhu cầu lúa của toàn cầu giai đoạn 2008-2015 dự báo sẽ tăng mỗi năm 50 triệu tấn lúa. (Bài viết giá cả thực của gạo, Sushil, IRRI, tháng 3/2008 - The true price of rice, by Sushil Pandey, IRRI program leader, Rice Policy and Impact).

Theo dự báo thị trường lương thực thế giới của OECD-FAO (2007-2017), lúa sẽ là cây lương thực chính của nhiều nước đang phát triển do có đặc tính canh tác phù hợp với khí hậu và đặc tính của đất, và gạo là lương thực thiết yếu trong bữa ăn truyền thống. Trong khi tiêu dùng lúa mỳ và ngũ cốc tăng trưởng dương khi thu nhập bình quân đầu người tăng, thì tăng trưởng tiêu dùng gạo lại có mối quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng dân số, còn tiêu dùng gạo bình quân đầu người trong giai đoạn dự báo (2007-2017) tăng rất ít và chủ yếu là ở các nước Châu Phi. Tuy nhiên, sản lượng gạo dự báo sẽ tăng do hai yếu tố. Thứ nhất, là do tác động của chính sách khuyến khích sản xuất lúa ở nhiều nước đang phát triển nhằm hỗ trợ thu nhập cho nông dân và hạn chế di cư nông thôn. Thứ hai, là do nỗ lực của các nước và khu vực trong việc khuyến khích mở rộng sản xuất lúa gạo để tự cung ứng nhu cầu nội địa, đặc biệt ở tiểu vùng Saharan của Châu Phi.

Thống kê Sản lượng, Tiêu dùng gạo toàn thế giới
Dự báo Sản lượng, Tiêu dùng gạo toàn thế giới 2007-2017
Nguồn: FAS/USDA, http://www.fas.usda.gov/psdonline/psdResult.aspx Nguồn: Dự báo OECD-FAO Agricultural Outlook

Liên hệ với người viết tin này:
Phạm Hoàng Ngân-phamhoangngan@agro.gov.vn
!!
2. Mối quan hệ cung - cầu, dự trữ và giá gạo thế giới

Cầu vượt cung, dự trữ gạo thế giới giảm, giá gạo biến động mạnh

Dự trữ lúa gạo trên toàn thế giới đã sụt giảm mạnh khỏi mức dự trữ cao trong thập kỷ trước, làm tăng mạnh thương mại lúa gạo toàn cầu, giá gạo xuất khẩu tăng đột biến, đặc biệt trong năm 2007 và đầu năm 2008. Sự sụt giảm lượng dự trữ của Trung Quốc là nguyên nhân chính làm sụt giảm tổng dự trữ lúa gạo toàn cầu. Tỷ lệ dự trữ/sử dụng của Trung Quốc dự báo giảm từ 18,7% trong năm 2007/08 xuống 16,2% năm 2016/17, mức thấp nhất kể từ năm 1974/75.
Dự trữ gạo các nước trên thế giới, 1998-2008), triệu tấn
Nguồn: psdonline http://www.fas.usda.gov/psdonline/psdQuery.aspx

Dự báo dự trữ lúa gạo Trung Quốc, 2007-2017, triệu tấn
Nguồn: ERS, USDA

Dự báo dự trữ lúa gạo Ấn Độ, 2007-2017,triệu tấn
Dự báo dự trữ một số nước, 2007-2017, triệu tấn
Nguồn: ERS, USDA

Theo dự báo của FAO-OECD, nhu cầu nhập khẩu gạo tăng, thậm chí ở các nước sản xuất gạo ở Châu Á (Trung Quốc và Indonesia), nhu cầu tăng ở Thổ Nhĩ Kỳ và các nước Trung Đông. Ngoài ra, sự thay đổi chính sách thương mại lúa gạo ở một số nước OECD đã khuyến khích tăng nhập khẩu lúa gạo: EU áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu lũy thoái -scaled back import duties, Hàn Quốc tăng hạn ngạch nhập khẩu gạo. Trong khi đó, khả năng tăng trưởng cung gạo thế giới trong dài hạn phụ thuộc chủ yếu vào sản xuất lúa gạo của một số nước Châu Á: chủ yếu là Thái Lan và Việt Nam, và rất ít khả năng Hoa Kỳ sẽ tăng lượng gạo xuất khẩu.

Tình trạng tiêu dùng vượt quá lượng gạo có thể sản xuất, cùng với tình trạng dự trữ gạo của hầu hết các nước đều giảm mạnh, mức dự trữ gạo hiện nay đang ở mức thấp nhất kể từ năm 1988, giá gạo trên thị trường thế giới đang có những biến động mạnh.

Kể từ năm 2007, và đặc biệt là đầu năm 2008, giá gạo xuất khẩu thế giới tăng cao đến mức chưa từng có, vượt xa so với kết quả dự báo biến đổi giá của OECD-FAO công bố cuối năm 2007. Tuy nhiên, theo dự báo của FAO, giá gạo thế giới sẽ chỉ tăng đến mức cao nhất vào năm 2009, sau đó giảm dần và bình ổn trở lại trong giai đoạn từ 2010-2017.
Dự báo giá gạo thế giới 2007-2017
Nguồn: OECD-FAO Agricultural Outlook 2007

So sánh giá gạo thế giới
Quý I, năm 2007 và 2008
Nguồn: FAOstat

Với mức dự trữ gạo thấp như hiện nay sẽ càng làm tăng rủi ro giá tăng mạnh trong tương lai. Theo dự báo của FAO-OECD, hoạt động mua bán gạo trên thế giới tiếp tục sôi động, vì vậy dự báo giá gạo sẽ tiếp tục tăng cao hơn nữa trong 1 thời kỳ tới, và sau đó sẽ giảm dần. Trong kinh tế học có 1 quan điểm là “giải pháp đối phó với tình trạng giá tăng cao chính là mức giá cao- “the solution to a high price is a high price””. Giá tăng sẽ thúc đẩy người sản xuất mở rộng sản xuất, và khôi phục cung, và dần dần sẽ làm giá giảm xuống. Giải pháp truyền thống này, có tính hiệu quả về mặt kinh tế và đạo đức, tuy nhiên không thể áp dụng trong trường hợp ngành hàng lúa gạo do bất cứ tác động của việc tăng giá nào cũng sẽ ảnh hưởng đến người dân nghèo và làm gia tăng đói nghèo. Trường hợp của Indonesia là một ví dụ: số lượng người nghèo của nước này tăng vài triệu người do giá gạo tăng mạnh trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997. Và có thể nói khủng hoảng kinh tế và chính trị xảy ra ở Indonesia bắt nguồn từ việc giá gạo tăng đột biến.

Theo Sushil Pandey, Giám đốc Chương trình “Chính sách lúa gạo và Tác động” của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI), chiến lược tốt nhất để bình ổn giá gạo là tăng sản xuất với tốc độ cao hơn tốc độ tăng cầu. Sản lượng gạo có thể tăng bằng cách mở rộng diện tích, hoặc tăng năng suất lúa, hoặc kết hợp cả hai biện pháp này. Tuy nhiên, ở Châu Á, khó có thể tăng cao hơn nữa diện tích đất lúa, sản xuất lúa gạo đang phải chịu cạnh tranh ngày càng mạnh với các ngành nghề và hoạt động kinh tế khác về nguồn lực đất, lao động và nước, và đặc biệt là áp lực tăng trưởng mạnh của sản xuất nhiên liệu sinh học. Ở Trung Quốc, diện tích lúa giảm gần 3 triệu ha trong giai đoạn 1997-2006. Mặc dù diện tích lúa cũng có khả năng mở rộng ở một số quốc gia khác ở Châu Á, tuy nhiên tổng diện tích đất lúa của Châu Á khó có khả năng vượt quá 136 triệu ha. Trong bối cảnh đó, công cụ chính để tăng sản lượng gạo là dựa vào việc tăng năng suất lúa, trong khi đó tốc độ tăng trưởng năng suất lúa hiện nay là quá thấp để có thể thúc đẩy tăng sản lượng gạo theo mức mong muốn. Ở hầu hết các nước trồng lúa chính ở Châu Á, tốc độ tăng trưởng năng suất lúa trong vòng 5 năm trở lại đây gần như bằng 0. Tình trạng khí hậu toàn cầu nóng lên đã tác động tiêu cực tới năng suất lúa đồng thời làm tăng tần suất xảy ra thiên tai hạn hán và lũ lụt.

Cải thiện năng suất: Yêu cầu cấp bách đối phó với khủng hoảng lương thực

Theo dự báo của Ban nghiên cứu kinh tế- Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, theo đó sản xuất gạo toàn cầu dự báo tăng theo các năm trong thập kỷ tới, chủ yếu là nhờ tăng năng suất lúa. Năng suất trung bình dự báo sẽ tăng khoảng gần 1% mỗi năm, xấp xỉ so với tỷ lệ tăng trưởng năng suất bình quân đạt được trong 10 năm trở lại đây. Mặc dù sản lượng bình quân hàng năm đều tăng, song tăng trưởng sản lượng dự kiến thấp hơn so với mức đạt được trong những năm cuối thập kỷ 1960 cho đến 1980, thời kỳ giống chất lượng cao mới được áp dụng ở hầu hết các nước Châu Á và các nước châu Mỹ La tinh.

Tăng trưởng năng suất bằng sự phát triển và ứng dụng các công nghệ cải tiến sẽ là giải pháp trong dài hạn để giúp giảm thiểu tình trạng tăng giá gạo. Cần phải có một cuộc Cách mạng xanh lần II, tăng đầu tư cho nghiên cứu kết hợp với cải cách chính sách để tăng hiệu quả kinh tế từ thị trường gạo sẽ giúp bình ổn giá lúa gạo và giảm nghèo.
Năng suất lúa (1998-2008)- tấn/ha
Nguồn: psdonline, http://www.fas.usda.gov/psdonline/psdResult.aspx

Trước những biến động mạnh về giá gạo thị trường thế giới cuối năm 2007, đầu năm 2008, nhiều tổ chức, tập đoàn đã vào cuộc nhằm hỗ trợ tìm giải pháp đối phó với khủng hoảng lúa gạo thế giới. Chủ tịch tập đoàn Microsft Bill Gates đã đưa ra quyết định sớm nhất khi công bố Quỹ Bill&Melinda Gates sẽ trợ giúp 19,9 triệu USD cho Viện Nghiên cứu lúa quốc tế trong thời gian (2008-2011), để giúp 400.000 hộ nông dân nhỏ ở khu vực Nam Á và vùng sa mạc Sahara tiếp cận với các giống lúa có chất lượng tốt hơn và kỹ thuật canh tác tiên tiến hơn. Theo Ông Duncan Macintosh, Giám đốc Viện Nghiên cứu Lúa gạo quốc tế, phải đến năm 2018, năng suất lúa thế giới có khả năng sẽ tăng gấp đôi so với hiện nay, điều mà khó có thể thực hiện trong tương lai gần. (Bài viết Châu Á đối mặt với khủng hoảng lúa gạo đang gia tăng, của Raja M, đăng trên Thời báo Châu Á, ngày 14/2/2008).
Xem số liệu dự báo về cung - cầu lúa gạo tại đây.

Liên hệ với người viết tin này:
Phạm Hoàng Ngân-phamhoangngan@agro.gov.vn



Báo cáo phân tích thị trường