Nguồn: Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT (IPSARD)
TÌNH HÌNH CHUNG
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG
Xuất khẩu nông lâm thủy sản (NLTS) của Việt Nam sang thị trường ASEAN chiếm hơn 8% tổng xuất khẩu NLTS của Việt Nam. Mười một tháng đầu năm 2021, xuất khẩu NLTS của Việt Nam sang các nước ASEAN đạt 3.597 triệu USD, tăng 11,57% so với cùng kỳ năm 2020, trong khi nhập khẩu đạt 5.256 triệu USD, tăng 64,36% so với cùng kỳ năm 2020. Tính riêng tháng 11/2021, kim ngạch xuất khẩu NLTS đạt 386,8 triệu USD, giảm 2,6% so với tháng trước và tăng 71,65% so với cùng kỳ năm 2020.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang ASEAN trong tháng 11/2021 là gạo (chiếm 34%), thủy sản (chiếm 16%), phân bón các loại (chiếm 8%), gỗ và sản phẩm gỗ ( chiếm 7%), cà phê (chiếm 5%). So với tháng 10/2021, có 9/14 mặt hàng NLTS có kim ngạch xuất khẩu trong tháng 11 tăng, cao nhất là thủy sản (tăng 55%), cà phê (tăng 39%), thức ăn gia súc và nguyên liệu (tăng 34,74%). Trong khi đó, có 5/14 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm, tuy nhiên mức độ giảm không đáng kể, nhiều nhất là rau quả (giảm 5,57%), thịt và sản phẩm thịt ( giảm 4,21%), chè và gạo giảm khoảng 2%. So với cùng kỳ năm 2020, ngoại trừ sắn và sản phẩm sắn giảm 80,51% và sản phẩm từ cao su giảm 37%, các mặt hàng khác đều có kim ngạch xuất khẩu tăng, nhiều nhất là thịt và sản phẩm thịt (tăng 294%), gạo (tăng 208%), hạt tiêu (tăng 77%).
Vào ngày 1 tháng 12 năm 2021, Bộ Tôn giáo Indonesia đã thông báo dự thảo quy định G / TBT / N / IDN / 139 cho Ủy ban TBT của WTO. Thời hạn nhận xét về biện pháp liên quan đến Hợp tác quốc tế về đảm bảo sản phẩm Halal là ngày 29 tháng 1 năm 2022. Sau khi ban hành Quy định của Chính phủ số 39/2021, là quy định thực hiện Luật 33/2014 về Đảm bảo Sản phẩm Halal, Chính phủ Indonesia (GOI) đã công bố năm quy định thực hiện, trong đó có 3 quy định ảnh hưởng đến các sản phẩm nhập khẩu: Nghị định số 57/2021 ngày 20/5/2021 về Tiêu chí Hệ thống Đảm bảo Sản phẩm Halal của Cơ quan Tổ chức Đảm bảo Sản phẩm Halal (BPJPH);Quy định số 57 / PMK.05 / 2021 của Bộ Tài chính ngày 03/6/2021 về Biểu giá dịch vụ của Cơ quan dịch vụ công của Cơ quan tổ chức đảm bảo sản phẩm Halal tại Bộ Tôn giáo; và Nghị định số 748/2021 ngày 26/9/2021 của MORA về các loại Sản phẩm bắt buộc phải được Chứng nhận Halal.
Theo cơ quan thường trú Bộ nông nghiệp Hoa Kỳ tại Philippin đã tăng ước tính sản lượng gạo xát của Philippin niên vụ 2021/2022 lên 12,5 triệu tấn. Trong khi đó, USDA giảm triển vọng sản xuất ngô xuống 7,5 triệu tấn và tăng nhập khẩu lên mức kỷ lục 1,2 triệu tấn để đáp ứng nhu cầu hiện tại. Nhập khẩu lúa mì dự kiến giảm xuống còn 6,3 triệu tấn vì nhu cầu đối với thức ăn cho lợn không tăng đáng kể và các sản phẩm lúa mì tiêu dùng giá cao hơn bắt đầu lên kệ.
Sản lượng thịt lợn của Philippin năm 2022 dự kiến tăng thêm 25.000 tấn lên 1,025 triệu tấn, khi một số người chăn nuôi lợn thương mại báo cáo nỗ lực xây dựng lại đàn. Tuy nhiên, việc tái sản xuất vẫn bị hạn chế bởi các ca dịch tả lợn châu Phi (ASF) tiếp tục xảy ra và việc thiếu vắc-xin. Nhập khẩu thịt lợn vào năm 2022 không thay đổi ở mức 375.000 tấn, do thời gian tiếp cận thị trường dự kiến hết hạn vào năm tới, trong khi nhập khẩu năm 2021 giảm 8% xuống 460.000 tấn do sự chậm trễ về hậu cần và gián đoạn nhãn thịt. USDA vẫn giữ nguyên dự báo trước đó về nhập khẩu thịt gà vào năm 2022 do các vấn đề hậu cần toàn cầu và bệnh Cúm gia cầm có khả năng gây bệnh cao đang bùng phát trở lại ở các nước cung cấp chính ở châu Âu.
Cơ quan Thường trú Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ tại Thái Lan (Post) đã điều chỉnh sản lượng gạo nước này niên vụ 2021 / 22 giảm nhẹ xuống 20,8 triệu tấn do thiệt hại lũ lụt ở các vùng đông bắc. Post dự báo xuất khẩu gạo của Thái Lan sẽ tăng lên 5,8 triệu tấn vào năm 2021. Post dự báo sản lượng ngô niên vụ 2021 / 22 sẽ giảm 4% so với niên vụ 2020 / 21, khi người trồng ngô chuyển sang các cây trồng có lợi hơn do chi phí sản xuất ngô cao. Post dự báo nhập khẩu lúa mì trong niên vụ 2021/22 sẽ giảm xuống 3,1 triệu tấn, giảm 6% so với niên vụ 2020 / 21 do sự bùng phát COVID-19 kéo dài và nền kinh tế phục hồi chậm.
Ngân hàng Phát triển Châu Á đã cắt giảm ước tính tăng trưởng cho Việt Nam và Malaysia trong năm nay sau khi giảm quý 3, đồng thời cắt giảm dự báo về các nước đang phát triển ở Châu Á vào năm 2022 do sự xuất hiện của biến thể COVID-19 omicron. Tổng sản phẩm quốc nội của khu vực Châu Á có khả năng tăng 7,0% trong năm nay và 5,3% năm tiếp theo, thấp hơn mức dự báo tháng 9 lần lượt là 7,1% và 5,4%. Các ca nhiễm COVID-19 trong khu vực đã thuyên giảm và việc tiêm chủng đã được cải thiện đáng kể, nhưng các ca bệnh toàn cầu đang gia tăng đe dọa sự mở cửa trở lại của các nền kinh tế. Đông Nam Á dự kiến sẽ tăng 3,0% trong năm nay, giảm từ 3,1%. Năm tới, khu vực này dự kiến sẽ tăng trưởng 5,1%, nhanh hơn mức 5,0% được dự báo trước đó. Tăng trưởng GDP của Việt Nam dự kiến sẽ giảm xuống 2,0% trong năm nay so với dự báo trước đó là 3,8%, trước khi tăng 6,5% vào năm sau. Malaysia hiện được dự đoán sẽ tăng trưởng 3,8% trong năm nay và 5,9% tiếp theo, chậm hơn so với các ước tính trước đó lần lượt là 4,7% và 6,1%. Philippines dự kiến sẽ tăng 5,1% trong năm nay, tăng từ 4,5%. Quốc gia này được dự đoán sẽ tăng trưởng 6,0% trong năm tới, khi tổ chức tổng tuyển cử, nhanh hơn mức 5,5% trước đó. Singapore đã sẵn sàng kết thúc năm với mức tăng 6,9%, tốt hơn so với dự báo trước đó là 6,5%. ADB vẫn duy trì dự báo tăng trưởng 3,5% của Indonesia trong năm nay, nhưng nâng triển vọng của nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á lên 5,0% trong năm tới từ 4,8%. Tương tự, Tổ thức tiền tệ thế giới IMF nhận định nền kinh tế toàn cầu sẽ vẫn tiếp tục phục hồi khỏi sự tàn phá của đại dịch trong năm nay và năm sau. Tuy nhiên, nguy cơ đối với tăng trưởng vẫn còn lớn do đại dịch tái bùng phát mạnh mẽ.
Báo cáo chi tiết xem tại đây.